Cây đa Sài Thị (Thuần Hưng, Khoái Châu) nơi thành lập Chi bộ cộng sản đầu tiên ở Hưng Yên
1. Đảng bộ tỉnh Hưng Yên được thành lập
Từ chi bộ cộng sản đầu tiên ở Sài Thị, chỉ với 7 đảng viên, được nhân dân ủng hộ, chở che, phong trào cộng sản đã không ngừng lớn mạnh, phát triển rộng khắp trong toàn tỉnh.
Năm 1930, nhóm Nông Hội đỏ ở Đại Quan (huyện Khoái Châu) đã cử người đến vận động thành lập tổ chức Nông Hội đỏ ở Đa Lộc (xã Đa Lộc, huyện Ân Thi). Cuối năm 1930, tổ chức cộng sản ở Ngọc Lập (xã Phùng Chí Kiên, huyện Mỹ Hào) được thành lập gồm 6 đồng chí.
Những năm 1931 – 1934, thực dân Pháp thẳng tay đàn áp, khủng bố dã man các cơ sở cách mạng của ta. Phong trào cách mạng của tỉnh gặp rất nhiều khó khăn, các cơ sở mất liên lạc với Xứ uỷ, với Trung ương, song dưới sự đùm bọc của quần chúng nhân dân, phong trào cộng sản trong tỉnh vẫn không ngừng lớn mạnh và phát triển rộng khắp.
Những năm 1936 - 1939, tình hình cách mạng trong nước có những chuyển biến mới, những chiến sỹ cách mạng bị bắt, tù đầy đã trở về chắp nối, gây dựng, củng cố lại cơ sở. Từ Đa Lộc (huyện Ân Thi) phát triển sang Thổ Cốc, Hoàng Xuyên (huyện Yên Mỹ). Tiếp đó là sự phát triển của cơ sở cách mạng ở Ngu Nhuế (huyện Văn Lâm), tháng 2/1938, chi bộ ghép Liễu Khê - Liễu Ngạn – Ngu Nhuế(*) (huyện Văn Lâm) được thành lập.
Trong giai đoạn này, sự ra đời của các tổ chức, các hội và phong trào cách mạng phát triển sôi nổi ở khắp các địa phương trong tỉnh, tiêu biểu như: Hội ái hữu ở Yên Tập (xã Nhân Hoà, huyện Mỹ Hào), Văn Nhuế (thị trấn Bần Yên Nhân, huyện Mỹ Hào), Hội An Nhân của nông dân huyện Tiên Lữ, Hội tương tế ở Xuân Cầu (xã Nghĩa Trụ, huyện Văn Giang), Đoàn Thanh niên dân chủ ở Quế Ải (huyện Phù Cừ)... Ngoài ra, các địa phương trong tỉnh còn thành lập các tổ chức hợp pháp như hội truyền bá quốc ngữ, hội tập võ, hội bát âm, tổ đọc sách báo để tập hợp quần chúng, tuyên truyền vận động nhân dân làm cách mạng...
Các tổ chức, các hội đã tích cực tham gia các cuộc đấu tranh từ cơ sở như chống hủ tục, chống phụ thu lạm bổ, đòi chia lại phe giáp. Nhân Ngày Quốc tế Lao động 1/5/1938, các cơ sở cách mạng ở Hưng Yên như cơ sở Ngu Nhuế (xã Lạc Đạo, huyện Văn Lâm), Hội tương tế Xuân Cầu (huyện Văn Giang) đã cử gần 200 đại biểu ra Hà Nội dự mít tinh. Cũng trong ngày 1/5/1938, tại Hưng Yên diễn ra nhiều cuộc mít tinh, tuần hành lớn tại khu vực ga Đình Dù (xã Đình Dù, huyện Văn Lâm). Các cuộc đấu tranh diễn ra rộng khắp ở các địa phương trong tỉnh.
Qua quá trình đấu tranh cách mạng, cuối năm 1940, đầu năm 1941 đã xuất hiện nhiều nhân tố tích cực, ưu tú trong phong trào cách mạng, trên địa bàn tỉnh đã tiếp tục ra đời các chi bộ Đảng, gồm chi bộ ghép Nhân Dục (Kim Động) – thị xã Hưng Yên, chi bộ ghép Ninh Thôn – Trai Thôn (huyện Ân Thi), chi bộ ghép Quế Lâm - Ải Quan (huyện Phù Cừ), chi bộ Ngải Dương (huyện Văn Lâm). Sự ra đời của các chi bộ đảng ở các địa phương đã thúc đẩy phong trào cách mạng trong tỉnh phát triển mạnh mẽ, tuy nhiên các tổ chức chưa thống nhất về một mối nên phong trào chưa đều khắp, đòi hỏi phải có sự thống nhất các tổ chức và cử ra cơ quan lãnh đạo chung.
Đầu tháng 7/1941, dưới sự chỉ đạo của Trung ương Đảng và Xứ uỷ Bắc kỳ, tỉnh đã mở Hội nghị các chi bộ Đảng ở Ninh Thôn (xã Cẩm Ninh, huyện Ân Thi). Hội nghị đã thảo luận tình hình trong nước, quốc tế, học Nghị quyết của Trung ương, bàn bạc, quyết định 04 vấn đề lớn, trong đó có một nội dung rất quan trọng là cử Ban Tỉnh uỷ lâm thời gồm 5 đồng chí*, đồng chí Liệu (Nguyễn Thanh Liệu) được cử làm Bí thư. Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Ban Tỉnh ủy lâm thời, phong trào cách mạng ở tỉnh ta phát triển cả bề rộng lẫn chiều sâu với một khí thế mới.
Cuối năm 1941, phong trào cách mạng gặp nhiều khó khăn. Địch tập trung về đàn áp phong trào cách mạng ở một số tỉnh trong đó có Hưng Yên. Một số đồng chí trong Ban Tỉnh ủy lâm thời bị bắt, phong trào cách mạng tạm lắng xuống.
Tuy nhiên, với tinh thần chủ động tiến công cách mạng, các đồng chí cán bộ, đảng viên vẫn tích cực liên lạc phát triển cơ sở mới, hướng dẫn quần chúng chống địch khủng bố.
Dưới danh nghĩa Ủy ban vận động Việt Minh, Tỉnh ủy phát thư kêu gọi đồng bào trong tỉnh hăng hái tham gia Việt Minh, tích cực tham gia các phong trào đấu tranh chống cướp thóc, chống nhổ ngô, nhổ lúa, trồng đay, trồng thầu dầu… Thư đã có tiếng vang lớn, những cuộc đấu tranh đòi hoãn thuế, bán thóc theo giá cả hợp lý đã diễn ra ở một số huyện như Ân Thi, Kim Động, Tiên Lữ…. Nhiều tăng ni đã giác ngộ đi theo cách mạng, nhiều nhà chùa là nơi che giấu, nuôi dưỡng cán bộ cách mạng. Đây thực sự là một thành công lớn, góp phần quan trọng vào việc khôi phục và phát triển phong trào cách mạng của tỉnh.
Đầu năm 1943, nhờ sự giúp đỡ của Xứ ủy, Ban Cán sự tỉnh được kiện toàn gồm 4 đồng chí*, đồng chí Ba Châu là Trưởng Ban Cán sự.
Quán triệt tinh thần Nghị quyết của Ban Thường vụ Trung ương Đảng (tháng 3/1943) và Nghị quyết của Xứ ủy (tháng 11/1943), Ban Cán sự tỉnh đã nhanh chóng khôi phục phong trào cách mạng, mở rộng mặt trận Việt Minh, phát triển lực lượng vũ trang, chuẩn bị cho cuộc đấu tranh giành chính quyền
Ý nghĩa lịch sử của việc thành lập Đảng bộ tỉnh Hưng Yên
- Hội nghị thống nhất các chi bộ đảng trong tỉnh ở Ninh Thôn có ý nghĩa lịch sử rất quan trọng, thể hiện sự lớn mạnh của phong trào cách mạng từ sau khi chi bộ đảng đầu tiên của tỉnh ra đời; khẳng định bước phát triển cao của phong trào phản đế địa phương.
- Là mốc son đánh dấu sự ra đời của Đảng bộ tỉnh Hưng Yên, thúc đẩy phong trào cách mạng trong tỉnh phát triển với một khí thế mới. Các đảng viên cộng sản tích cực tuyên truyền, vận động phong trào phản đế thành phong trào cứu quốc.
- Đảng bộ tỉnh Hưng Yên được thành lập đã lãnh đạo đảng viên và nhân dân thực hiện đúng đường lối, chủ trương của Trung ương Đảng, của Xứ uỷ và Liên Tỉnh B một cách nghiêm túc, sáng tạo phù hợp với điều kiện cụ thể của địa phương, tạo được phong trào cách mạng không ngừng lớn mạnh, trưởng thành, vững vàng dẫn dắt phong trào cách mạng của Hưng Yên trong thời kỳ mới.
2. Đảng bộ lãnh đạo nhân dân trong tỉnh đấu tranh khởi nghĩa giành chính quyền, giữ vững chính quyền cách mạng và kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (8/1945-10/1954)
Đầu năm 1945, phong trào cách mạng đã có chuyển biến đáng kể, tạo điều kiện mau chóng chuyển phong trào cách mạng trong tỉnh lên thành cao trào. Cao trào chống Nhật cứu nước diễn ra sôi nổi, mạnh mẽ trong toàn tỉnh. Mở đầu là trận đánh đồn Bần đêm 12/3/1945, đã giành được được thắng lợi giòn giã, khích lệ tinh thần chiến đấu của quân và dân Hưng Yên.
Chiến thắng đồn Bần đã tạo được khí thế mới, tạo đà cho các cuộc đấu tranh phá kho thóc của Nhật chia cho nhân dân diễn ra ngày càng nhiều ở hầu hết các huyện trong tỉnh. Lực lượng Việt Minh được củng cố và tăng cường, các đoàn thể cứu quốc, các đội tự vệ phát triển.
Tháng 8/1945, Đảng bộ tỉnh kết hợp chỉ đạo kịp thời, kiên quyết, linh hoạt của tỉnh với việc phát huy tinh thần chủ động, sáng tạo của các địa phương và của quần chúng ở các cơ sở, tạo nên những cơ hội hành động mau lẹ, liên tục tấn công địch, thúc đẩy điều kiện khởi nghĩa chín muồi.
Ngày 14 và 15/8/1945, Hội nghị toàn quốc của Đảng họp ở Tân Trào (Tuyên Quang); ngày 16/8/1945, Kỳ bộ Việt Minh ra Thông báo khẩn cấp gửi chỉ huy các tỉnh. Đêm 14/8/1945, Việt Minh huyện Phù Cừ đã chớp thời cơ tấn công vào huyện đường giành được thắng lợi. Tiếp theo Phù Cừ, các huyện khác đều khẩn trương khởi nghĩa giành chính quyền. Chỉ trong vòng 01 tuần từ ngày 14 đến ngày 22/8/1945, các huyện, thị trong toàn tỉnh đã khởi nghĩa giành chính quyền. Ngày 23/8/1945, Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời tỉnh Hưng Yên được thành lập.
Thắng lợi của cuộc Tổng khởi nghĩa vũ trang nhanh gọn ở Hưng Yên góp phần vào thắng lợi chung của cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 trên cả nước, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Nhà nước Dân chủ Nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á.
Trong điều kiện vừa giành được chính quyền, nước ta còn gặp vô vàn khó khăn: thù trong giặc ngoài, nạn đói, nạn dốt, hạn hán, lụt lội đe dọa. Giữa lúc đó, ngày 10/01/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh về thăm Hưng Yên, Bác động viên đồng bào Hưng Yên tích cực đắp đê phòng lụt, đoàn kết chặt chẽ, cố gắng làm việc, giúp đỡ kháng chiến chống thực dân Pháp.
Thực hiện Chỉ thị “Kháng chiến kiến quốc” của Trung ương và Lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng bộ Hưng Yên tập trung giải quyết các nhiệm vụ cấp bách trước mắt là cứu đói và xoá nạn mù chữ, xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng, khắc phục hậu quả của chế độ cũ để lại; đấu tranh chống âm mưu phá hoại của bọn Tưởng và bè lũ tay sai phản động; đấu tranh đòi thi hành Hiệp định Sơ bộ (6/3) và chuẩn bị mọi mặt cho kháng chiến.
Đầu tháng 7/1946, Đảng bộ tỉnh Hưng Yên họp Hội nghị đại biểu tại xã Chiến Thắng (huyện Ân Thi) gồm 52 đại biểu. Hội nghị kiểm điểm quá trình công tác, đặt chương trình hoạt động và cử Ban chấp hành Tỉnh uỷ gồm 7 đồng chí, đồng chí Vũ Duy Hiệu làm Bí thư. Do tình hình lúc đó Đảng phải tạm thời chuyển vào hoạt động bí mật, nên tuyên bố “Tự giải tán”, tổ chức Đảng gọi là “Hội nghiên cứu chủ nghĩa Mác”, Đảng bộ tỉnh gọi là “Hội bộ”. Từ sau Cách mạng Tháng Tám thành công, nhất là sau Hội nghị Đảng bộ tỉnh, công tác phát triển Đảng được đẩy mạnh. Tổng khởi nghĩa Tháng Tám, toàn tỉnh mới có 35 đảng viên; tháng 12/1945 có 134 đảng viên; đến ngày Toàn quốc kháng chiến (19/12/1946) Đảng bộ tỉnh đã có 88 chi bộ (trong đó có 32 chi bộ ghép) với 629 đảng viên.
Từ ngày 10/5 đến ngày 14/5/1947 tại Trà Bồ (xã Phan Sào Nam, huyện Phù Cừ), Đảng bộ Hưng Yên tiến hành Đại hội lần thứ nhất. Dự Đại hội có 150 đại biểu. Đại hội tổng kết tình hình qua 4 tháng trực tiếp chiến đấu với địch, đồng thời quán triệt đường lối kháng chiến của Đảng về những vấn đề cơ bản như quan điểm chiến tranh nhân dân, phương châm đánh lâu dài, tự lực cánh sinh. Đại hội khẳng định: kẻ thù dù đông quân, vũ khí trang bị kỹ thuật hiện đại, nhưng không thể khuất phục được tinh thần yêu nước, quyết tâm kháng chiến của nhân dân ta. Đại hội đề ra những nhiệm vụ về chính trị, quân sự, kinh tế, văn hoá, giáo dục và quyết định thành lập trường huấn luyện đào tạo cán bộ, đặt tên là “Trường Tháng 8”. Đại hội bầu Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh gồm 11 đồng chí, đồng chí Lê Thành được bầu làm Bí thư Tỉnh uỷ.
Từ ngày 5/2 - 8/2/1948 tại đình Hoàng Xá (xã Trung Dũng, huyện Tiên Lữ), đã tiến hành Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ II. Dự Đại hội có 145 đại biểu. Đại hội phổ biến Nghị quyết Hội nghị đại biểu Liên Khu 3 lần thứ nhất; kiểm điểm công tác Ban chấp hành, xác định chương trình hành động. Đại hội bầu Ban chấp hành Đảng bộ gồm 11 uỷ viên chính thức và 2 uỷ viên dự khuyết, đồng chí Lê Thành được bầu làm Bí thư Tỉnh uỷ.
Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ II và lời Bác dạy cán bộ tỉnh Hưng Yên tại Hội nghị dân quân toàn quốc tại Việt Bắc tháng 4/1948: “Các cô, các chú không có rừng cây, nhưng có rừng dân, dựa vào dân mà kháng chiến”, quân và dân Hưng Yên không quản hy sinh, liên tục đứng lên, liên tục chiến đấu bảo vệ quê hương. Đặc biệt từ cuối năm 1949, toàn bộ địa bàn Hưng Yên nằm trong vùng kiểm soát của địch, cả tỉnh có 360 làng thì có 360 hương đồn, tháp canh, bốt địch, song quân và dân Hưng Yên vẫn kiên trì bám trụ, vận dụng sáng tạo đường lối kháng chiến của Đảng, bám đất, bám dân, gây dựng cơ sở, phát triển phong trào, mở các khu du kích, huy động sức mạnh của toàn dân để đánh địch.
Từ ngày 15/7 - 19/7/1949, tại thôn Lệ Chi (xã Thuỵ Lôi, huyện Tiên Lữ), Đảng bộ tỉnh tiến hành Đại hội lần thứ III. Dự đại hội có 150 đại biểu. Đại hội kiểm điểm mọi mặt công việc kháng chiến; công tác lãnh đạo đấu tranh trực tiếp với địch trong vùng tạm chiếm phía Bắc và đề ra nhiệm vụ mới theo tinh thần “tích cực cầm cự chuẩn bị tổng tiến công”. Đại hội bầu Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh gồm 15 đồng chí, đồng chí Trịnh Quý Dần được bầu làm Bí thư Tỉnh uỷ.
Thực hiện sự lãnh đạo của Trung ương; Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ III và lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, mặc dù là tỉnh bị thực dân Pháp liên tục mở các cuộc càn quét lớn, có cuộc càn quét kéo dài cả chục ngày, tràn qua địa bàn tỉnh. Nhiều nơi địch kiểm soát ban ngày, ban đêm thuộc về ta, những trận đánh du kích liên tục diễn ra ở khắp nơi. Nổi bật là chiến công của đội nữ Du kích Hoàng Ngân hoá trang đánh địch trên đường 39 (trận nữ du kích Hoàng Ngân thị xã đánh địch tại chùa Diều); các trận quân chủ lực và du kích kết hợp như đánh bốt Thọ Lão, bao vây bốt Viên Quang ta tiêu diệt cả trung đội địch, đáng chú ý là chiến công ở Phan Tống Xá, Long Cầu và Phú Mãn đã loại khỏi vòng chiến đấu 1.050 tên địch, tạo những tiếng vang rất lớn…
Từ những làng du kích, Hưng Yên đã mở được các khu du kích liên hoàn. Tiếp theo là những chiến công trên đường 5 và đường sắt, góp phần tạo lên “Sấm Đường 5” vang dội …
Với những chiến công đó, năm 1952, quân và dân Hưng Yên đã vinh dự được nhận cờ Bác tặng “Đoàn kết nhân dân đánh thắng giặc Pháp”.
Ngoài việc đánh giặc giỏi, quân và dân Hưng Yên còn tích cực mở các lớp “bình dân học vụ” để chống giặc dốt. Năm 1952 trong bài báo Bác viết gửi cho báo Phương Tây có đoạn: “Bất chấp những nguy hiểm và khó khăn của một tỉnh bị chiếm đóng, Hưng Yên vừa chiến đấu chống thực dân Pháp, vừa chống giặc dốt. Việc thanh toán nạn mù chữ được làm trong vòng bí mật. Riêng năm 1951 đã có hơn 460 lớp học bí mật được tổ chức với 3.120 học viên”.
Trong kháng chiến chống Pháp, nhân dân Hưng Yên đã tập hợp cao nhất sức người, sức của cho kháng chiến trên địa bàn và chi viện cho các chiến trường, nhất là chiến trường Điện Biên Phủ.
Qua 9 năm kháng chiến trường kỳ, gian khổ, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh, quân và dân Hưng Yên đã chiến đấu 9.022 trận, tiêu diệt 19.275 tên địch (trong đó có 752 lính Âu, 336 lính Phi), bắt sống 4.917 tên, gọi hàng 12.052 tên. Chiến lợi phẩm thu được 2 đại bác, 12 trọng liên, 31 đại liên, 263 trung liên, 454 tiểu liên, 2.933 súng trường, 69 súng cối, 2 khẩu ĐKZ, 270 máy vô tuyến điện. Phá huỷ 483 khẩu súng, 240 xe quân sự, 62 xe tăng, 27 xe thiết giáp, 52 đầu tầu hoả, 154 toa tàu, bắn rơi 2 máy bay, bắn đắm 1 tàu chiến, 7 ca nô. Quân dân tỉnh ta đã đánh địch bằng mọi thứ vũ khí có trong tay, đánh địch ở mọi lúc mọi nơi, làm thành một “Thiên la địa võng” của chiến tranh du kích, trở thành tỉnh có phong trào chiến tranh nhân dân phát triển cao ở đồng bằng Bắc Bộ… Những chiến công đó đã góp phần cùng cả nước đánh thắng thực dân Pháp xâm lược.
Với thành tích đó, Hưng Yên được Bác Hồ gửi thư khen, tặng cờ, cùng hiện vật cho các đơn vị, tập thể và cá nhân, được Đảng và Nhà nước khen tặng 10 Huân chương Quân công, 30 Huân chương Chiến công, cùng hàng vạn huân, huy chương các loại cho các đơn vị, cá nhân và gia đình có công lao, thành tích trong kháng chiến. Hàng trăm cá nhân lập được thành tích xuất sắc trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu, sản xuất giỏi được bầu là Chiến sĩ thi đua các cấp, trong đó có 9 người được phong tặng, truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân…
3. Đảng bộ lãnh đạo khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục kinh tế, cải tạo, xây dựng chủ nghĩa xã hội, chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ (1954-1967)
Sau giải phóng quê hương 1954, Đảng bộ và nhân dân Hưng Yên đã bắt tay khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh, cải tạo sản xuất và phát triển văn hóa xã hội, xây dựng quê hương. Tại Hội nghị mở rộng từ ngày 21/8 đến ngày 23/8/1954, Tỉnh uỷ đã đề ra chủ trương: tập trung tuyên truyền, giáo dục để toàn dân nhận thức đúng, chấp hành nghiêm chỉnh Hiệp định đình chiến đã ký, nhận rõ âm mưu, thủ đoạn của đế quốc Mỹ, thực dân Pháp và bè lũ tay sai; đề cao tinh thần trách nhiệm trong công tác, tích cực phát triển sản xuất, ổn định sinh hoạt ở các vùng nông thôn.
Giữa năm 1955, thực hiện Nghị quyết lần thứ 4 của Ban chấp hành Trung ương Đảng (khoá II) về tình hình trước mắt và nhiệm vụ cải cách ruộng đất, Tỉnh uỷ đã phát động quần chúng tiến hành cải cách ruộng đất. Qua cải cách ruộng đất, tỉnh đã giải quyết được nguyện vọng của nhân dân, người nông dân đã thực sự làm chủ ở nông thôn cả về chính trị và kinh tế.
Thực hiện Nghị quyết của Hội nghị lần thứ 14 Ban chấp hành Trung ương Đảng (tháng 11/1958), Tỉnh uỷ đã xác định rõ nhiệm vụ trọng tâm trong thời gian từ 1958-1960 là xoá bỏ làm ăn riêng lẻ, đưa nông dân vào làm ăn tập thể, thực hiện hợp tác hoá. Đến cuối năm 1959, Hưng Yên đã có 95% số hộ vào tổ đổi công.
Phát triển sản xuất nông nghiệp là đòi hỏi bức thiết, song Hưng Yên chưa có hệ thống thuỷ nông, tình trạng hạn hán và úng ngập rất gay gắt. Trước tình hình đó, Tỉnh uỷ xác định: "Thuỷ lợi đi trước một bước" và chỉ đạo các cấp, các ngành trong tỉnh tập trung tạo mọi điều kiện thúc đẩy công tác thuỷ lợi.
Ngày 5/1/1958, Chủ tịch Hồ Chí Minh về thăm Hưng Yên, nói chuyện với cán bộ và nhân dân, Người nói: "Làm thuỷ lợi khó nhọc trong vài năm để được sung sướng muôn đời". Thực hiện lời dạy của Bác Hồ, Đảng bộ tỉnh đã lãnh đạo nhân dân đạt được nhiều thành tích trong công tác thuỷ lợi, đây là một bước quan trọng để đẩy lùi hạn hán và úng ngập, mở rộng diện tích canh tác, tăng sản lượng lúa và hoa màu…
Từ ngày 8/3 - 15/3/1959, tại Hội trường Trường Đảng tỉnh đã diễn ra Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ IV. Dự đại hội có 131 đại biểu chính thức và 14 đại biểu dự khuyết. Nội dung chủ yếu của Đại hội được tóm tắt thành “Tứ hoá”, gồm: thuỷ lợi hoá, hợp tác hoá, bổ túc văn hoá và quân sự hoá. Đại hội bầu Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh gồm 25 ủy viên chính thức và 5 ủy viên dự khuyết. Đồng chí Lê Quý Quỳnh được bầu làm Bí thư Tỉnh ủy.
Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh, phong trào “tứ hoá” của tỉnh đã phát triển đồng đều, dân trí được nâng lên, đã áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất, xây dựng lực lượng vũ trang, bảo vệ quê hương. Phong trào đã có tác dụng rất lớn đối với việc phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh và công tác xây dựng Đảng của Đảng bộ, thể hiện sự kết hợp giữa củng cố, xây dựng, phát triển kinh tế với văn hoá và quốc phòng.
Với những thành tích đạt được năm 1960, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh tặng thưởng Huân Chương Lao động hạng Ba cho cán bộ và nhân dân Hưng Yên, vì đã đạt nhiều thành tích trong Bổ túc văn hoá. Trung ương Đảng tặng cờ dẫn đầu vể Bổ túc văn hoá. Đối với quân sự hoá, Hưng Yên là tỉnh nhiều năm dẫn đầu Quân khu Tả ngạn…
Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ V được tiến hành 2 vòng:
Vòng 1 từ ngày 27/6 đến 6/7/1960 tại thị xã Hưng Yên. Dự đại hội có 244 đại biểu chính thức, 18 đại biểu dự khuyết. Đại hội đã tập trung thảo luận góp ý vào Dự thảo Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương và bầu đoàn đại biểu đi dự Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III gồm 9 đại biểu chính thức, 01 đại biểu dự khuyết.
Vòng 2 từ ngày 21/3 đến 29/3/1961 tại thị xã Hưng Yên. Dự đại hội có 225 đại biểu chính thức. Đại hội đã đề ra các phương hương và biện pháp nhằm thực hiện tốt kế hoạch 5 năm lần thứ nhất. Đại hội đã bầu BCH khóa V gồm 25 ủy viên chính thức, 6 ủy viên dự khuyết. Đồng chí Lê Quý Quỳnh được bầu làm Bí thư Tỉnh ủy.
Từ ngày 6/9 - 10/9/1963, tại Hội trường Trường Đảng tỉnh đã diễn ra Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ VI. Dự đại hội có 242 đại biểu chính thức và 18 đại biểu dự khuyết. Đại hội đã đánh giá tình hình kinh tế - xã hội của Hưng Yên trong ba năm đầu thực hiện Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất và đề ra mục tiêu, nhiệm vụ cụ thể cho nhiệm kỳ tới. Đại hội bầu Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh gồm 17 ủy viên chính thức và 2 ủy viên dự khuyết. Đồng chí Lê Quý Quỳnh được bầu làm Bí thư Tỉnh ủy.
Thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ III của Đảng, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ V và lần thứ VI, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh, nhân dân Hưng Yên nỗ lực phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ kinh tế - xã hội… Đảng bộ tỉnh đã có bước trưởng thành, đến năm 1965 có 15.596 đảng viên, trong đó có 11.329 đảng viên nông thôn.
Giữa lúc Đảng bộ và nhân dân Hưng Yên đang dồn sức thi đua thực hiện thắng lợi kế hoạch 5 năm lần thứ nhất thì đế quốc Mỹ điên cuồng mở cuộc chiến tranh leo thang phá hoại miền Bắc, tăng cường chiến tranh xâm lược miền Nam. Tình thế cách mạng của dân tộc ta chuyển sang giai đoạn mới: cả nước có chiến tranh, chống Mỹ cứu nước trở thành nhiệm vụ cấp bách và thiêng liêng của cả dân tộc. Trong điều kiện vừa sản xuất vừa chiến đấu, Đảng bộ tỉnh đã lãnh đạo nhân dân tập trung cao độ xây dựng hậu phương vững mạnh, tăng cường tiềm lực kinh tế và quốc phòng, đáp ứng yêu cầu cách mạng của cả nước. Tỉnh ta đã thực hiện tốt các cuộc vận động xây dựng Đảng bộ Bốn tốt; Chính quyền Hai tốt; Mặt trận Ba gương mẫu, Hai tích cực; Thanh niên Ba sẵn sàng; Phụ nữ Ba đảm đang; Thiếu niên Nghìn việc tốt; Nhà trường phổ thông Hai tốt; Hợp tác xã Hai giỏi…
Với khẩu hiệu: Tất cả vì miền Nam ruột thịt, tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược… Đến năm 1965 tỉnh ta đã gieo cấy đạt 112% kế hoạch, đây là diện tích đạt cao nhất từ ngày hòa bình lập lại. Phong trào trại chăn nuôi tập thể, phong trào vườn cây, ao cá Bác Hồ được phát triển ở hầu hết các xã trong tỉnh. Đặc biệt đối với phong trào làm thủy lợi, đã xây dựng hàng trăm công trình trung, tiểu thủy nông và trạm bơm lớn, nhỏ, để giải quyết khó khăn về hạn và úng cho 37.989 ha diện tích cấy, trồng. Với những thành tích to lớn trên mặt trận thủy lợi, Đảng bộ và nhân dân Hưng Yên đã vinh dự được Bác Hồ tặng Cờ luân lưu “Làm thủy lợi khá nhất” miền Bắc 4 lần.
Công tác văn hóa giáo dục phát triển khá mạnh, công tác bổ túc văn hóa là nhiệm vụ quan trọng, là yêu cầu cấp thiết để nâng cao trình độ cho cán bộ, cho nhân dân lao động, tạo điều kiện để phổ biến khoa học kỹ thuật. Với kết quả của phong trào bổ túc văn hóa, Hưng Yên được tặng thưởng Huân chương Lao động Hạng Nhì, huyện Phù Cừ được Bác gửi thư khen ngợi cán bộ, nhân dân đã tích cực học văn hoá đạt kết quả tốt.
4. Thời kỳ Đảng bộ Hưng Yên hợp nhất với Đảng bộ Hải Dương thành Đảng bộ tỉnh Hải Hưng (1969 - 1996)
Năm 1968 tỉnh Hưng Yên hợp nhất với tỉnh Hải Dương thành tỉnh Hải Hưng; thực hiện tốt hai nhiệm vụ chiến lược: Xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, tiến hành công cuộc đổi mới của Đảng (1968 - 1996).
Ngày 26/1/1968, Ủy ban Thường vụ Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra Quyết định số 504-QĐ/TVQH về việc hợp nhất hai tỉnh Hưng Yên và Hải Dương thành tỉnh Hải Hưng, tỉnh lỵ đặt tại thị xã Hải Dương. Sau khi hợp nhất, Ban Chấp hành lâm thời Đảng bộ tỉnh Hải Hưng có 46 ủy viên (Hưng Yên 15 ủy viên, Hải Dương 31 ủy viên), trong đó có 13 ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy. Theo sự chỉ định của Trung ương, đồng chí Lê Quý Quỳnh làm Bí thư Tỉnh ủy; đồng chí Nguyễn Hoài Bắc, Phó bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Ủy ban hành chính tỉnh.
Hải Hưng là tỉnh lớn, nằm ở trung tâm châu thổ đồng bằng Bắc bộ, chiếm 21,7% tổng diện tích đồng bằng Bắc bộ, số dân 1.630.000 người, mật độ 632 người/km2, là tỉnh đông dân của miền Bắc, nằm giáp thủ đô Hà Nội và thành phố Hải Phòng. Hải Hưng có vị trí trọng yếu về kinh tế, nhất là kinh tế nông nghiệp, sản lượng lương thực hàng năm đạt 600.000 tấn, chiếm 13% tổng số sản lượng miền Bắc. Hải Hưng có đồng ruộng phì nhiêu, có đồi rừng và tài nguyên khoáng sản là những điều kiện tự nhiên thuận lợi để phát triển kinh tế, xã hội.
Ngày 29-30/12/1972: Tỉnh Hải Hưng tổ chức Hội nghị tổng kết công tác nông nghiệp năm 1972. Năm 1972, lần đầu tiên trong sản xuất nông nghiệp, Hải Hưng đạt 5 tấn thóc/ha gieo trồng.
Ngày 11-20/11/1976: Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Hải Hưng lần thứ II (vòng 1). Đại hội đã nghiên cứu, thảo luận, đóng góp ý kiến và thống nhất cao hai dự thảo văn kiện quan trọng là: Đề cương báo cáo chính trị và Điều lệ (sửa đổi) của Đảng. Đại hội bầu đoàn đại biểu đi dự Đại hội lần thứ IV của Đảng gồm 34 đồng chí. Đồng chí Nguyễn Khai, ủy viên dự khuyết Trung ương Đảng, Phó Trưởng ban Tổ chức về dự và nói chuyện với Đại hội
Ngày 30/10-3/11/1979: Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Hải Hưng lần thứ III được tổ chức tại thị xã Hải Dương. Đại hội có trên 500 đại biểu đại diện cho hơn 8 vạn đảng viên trong toàn Đảng bộ về dự. Đại hội kiểm điểm kết quả thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ II trong 3 năm (1977-1979) và đề ra mục tiêu kinh tế- xã hội cho 2 năm (1980-1981). Đại hội xác định 3 nhiệm vụ cấp bách trong giai đoạn mới là:
Đại hội bầu Ban chấp hành Đảng bộ gồm 43 ủy viên, trong đó có 4 ủy viên dự khuyết. Ban Thường vụ Tỉnh ủy gồm 13 ủy viên, đồng chí Ngô Duy Đông, Ủy viên BCH Trung ương Đảng, được bầu làm Bí thư Tỉnh ủy.
Ngày 6-14/1/1982: Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Hải Hưng lần thứ IV (vòng 1). Về dự có 522 đại biểu, đồng chí Lê Thanh Nghị- ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Phó Chủ tịch Hội đồng Nhà nước về dự Đại hội. Đại hội đã phân tích sâu sắc những chủ trương có tính chất chiến lược của cách mạng nước ta, đề ra những mục tiêu kinh tế- xã hội trong những năm 80 và phương hướng kế hoạch cụ thể cho 5 năm (1981-1985) của tỉnh.
Ngày 25-29/1/1983: Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Hải Hưng lần thứ IV (vòng 2). Về dự Đại hội có hơn 500 đại biểu. Đại hội đã thông qua Nghị quyết và phương hướng nhiệm vụ, mục tiêu kinh tế - xã hội năm 1983 và mức phấn đấu đến năm 1985 của tỉnh, Đại hội bầu Ban chấp hành Đảng bộ khóa IV gồm 41 ủy viên chính thức và 4 ủy viên dự khuyết. Đồng chí Ngô Duy Đông được bầu lại làm Bí thư Tỉnh ủy
Ngày 20/7/1985: Nhân dịp kỷ niệm lần thứ 40 cách mạng Tháng 8 và Quốc khánh 2/9, Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh tổ chức trọng thể Lễ đón nhận Huân chương sao vàng- Huân chương cao quý nhất của Nhà nước tặng nhân dân, cán bộ, chiến sĩ Hải Hưng về công lao và thành tích to lớn trong cách mạng dân tộc dân chủ, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Ngày 12/9/1985: Ban Thường vụ Tỉnh ủy ra Nghị quyết 41 về "Cải tiến quản lý kinh tế, xóa bỏ quan liêu bao cấp, thực hiện cơ chế và phân phối theo lao động trong hợp tác xã nông nghiệp". Nghị quyết này nhằm mở đường cho giai cấp nông dân tập thể Hải Hưng sản xuất theo hướng hạch toán kinh tế kinh doanh xã hội chủ nghĩa, thúc đẩy sản xuất nông nghiệp phát triển, đảm bảo quyền lợi, hiệu quả cho người lao động.
Ngày 20-25/10/1986: Đảng bộ Hải Hưng tổ chức Đại hội đại biểu lần thứ V tại thị xã Hải Dương, 505 đại biểu chính thức thay mặt cho hơn 115 nghìn đảng viên về dự. Đại hội nghiên cứu, quán triệt góp ý với dự thảo Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng trình tại Đại hội toàn quốc lần thứ VI, xây dựng những nhiệm vụ mục tiêu kinh tế-xã hội và các biện pháp thực hiện trong 5 năm (1986-1990)
Đại hội đã bầu Ban chấp hành Đảng bộ mới gồm 56 đồng chí, trong đó có 13 đồng chí là ủy viên dự khuyết. Ban Thường vụ Tỉnh ủy gồm 13 đồng chí, đồng chí Lê Đức Bình, Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Phó Trưởng ban Tổ chức Trung ương Đảng được bầu làm Bí thư Tỉnh ủy.
Ngày 1/4/1989: Tổng điều tra dân số trong cả nước. Tính đến 0 giờ ngày 1/4/1989 ở Hải Hưng có 2.440.000 người, trong đó nam có 1.148.000 người và nữ có 1.292.000 người.
Ngày 15-17/8/1991: Đại hội Đảng bộ tỉnh Hải Hưng lần thứ VI . Về dự Đại hội có 404 đại biểu. Đại hội đã nghe, quán triệt sâu sắc các Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng, nghe báo cáo chính trị của Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa V và thông qua Nghị quyết, phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu chủ yếu 5 năm (1991-1995). Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa V (1986-1990), trình Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh khóa VI đã đánh giá kết quả thực hiện đổi mới trên các lĩnh vực.
Đại hội đã bầu Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa VI gồm 53 đại biểu. Đồng chí Phạm Văn Thọ được bầu là Bí thư Tỉnh ủy.
Ngày 6/9/1993: Đài phát thanh truyền hình tỉnh lắp máy phát hình mới. Đây là hệ thống máy phát hình mầu, hiện đại. Công suất 1KW-VHF, kênh 70FFSET, ký hiệu PCN-1401 SH/1 băng III được nhập từ Nhật Bản. Đài có khả năng phủ sóng trên phạm vi toàn tỉnh.
Ngày 6- 9/5/1996, Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Hải Hưng lần thứ VII tại thị xã Hải Dương. Về dự Đại hội có trên 350 đại biểu. Đại hội đã nghe báo cáo về những thành tựu nổi bật 5 năm (1991-1995):
Kinh tế Hải Hưng đã thoát ra khỏi suy phát triển liên tục với tốc độ nhanh. Nông nghiệp phát triển tương đối toàn diện, tổng thu ngân sách trên địa bàn tăng bình quân 34%, đáp ứng được nhu cầu chi thiết yếu.
Đời sống văn hóa, xã hội có nhiều tiến bộ. Đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Đổi mới hệ thống chính trị, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân.
Đại hội đã bầu Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa VII gồm 49 đồng chí. Đồng chí Phạm Văn Thọ được bầu làm Bí thư Tỉnh ủy.
Ngày 6/11/1996, Quốc hội khóa IX, kỳ họp thứ 10 phê chuẩn việc phân chia lại địa giới hành chính tỉnh. Hải Hưng được tách ra làm hai tỉnh; Hưng Yên và Hải Dương. Tỉnh Hưng Yên có diện tích tự nhiên là 923,09km2, dân số 1.075.517 người, gồm 6 đơn vị hành chính cấp huyện: thị xã Hưng Yên, Mỹ Văn, Châu Giang, Phù Tiên, Ân Thi, Kim Động. Vị trí địa lý, phía bắc giáp tỉnh Bắc Ninh và thủ đô Hà Nội; phía đông giáp tỉnh Hải Dương; phía Nam giáp tỉnh Thái Bình và Hà Nam; phía tây giáp tỉnh Hà Nam, Hà Tây và thủ đô Hà Nội.
Nhân dân Hưng Yên vui mừng chào đón ngày tái lập tỉnh (1/1/1997)
5. Tỉnh Hưng Yên được tái lập, Đảng bộ tỉnh lãnh đạo thực hiện sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Từ ngày 11/11 đến 13/11/1997 , tại Nhà văn hóa Trung tâm tỉnh(thị xã Hưng Yên ), Đảng bộ tỉnh đã tổ chức Đại hội lần thứ XIV. Đại hội đã bầu 43 đồng chí làm ủy viên Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Hưng Yên. Đồng chí Đặng Văn Cảo được bầu làm Bí thư Tỉnh ủy
Từ ngày 02/1 đến 04/1/2001, Đảng bộ tỉnh Hưng Yên đã tổ chức Đại hội lần thứ XV. Đại hội đã bầu ra Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa XV gồm 43 ủy viên. Hội nghị Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Hưng Yên lần thứ nhất (khóa XV) đã bầu đồng chí Phạm Đình Phú làm Bí thư Tỉnh ủy.
Từ ngày 18/12 đến 21/12/2005 , tại Nhà văn hóa Trung tâm tỉnh(thị xã Hưng Yên ), Đảng bộ tỉnh đã tổ chức Đại hội lần thứ XVI. Đại hội đã bầu 49 đồng chí làm ủy viên Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Hưng Yên. Đồng chí Nguyễn Đình Phách được bầu làm Bí thư Tỉnh ủy từ (12/2005 – 12/2008). Đồng chí Cao Văn Cường, Bí thư Tỉnh ủy (từ 4/2009 – 3/2010)
Từ tháng 4/2010, đồng chí Nguyễn Văn Cường làm Bí thư Tỉnh ủy, kiêm Chủ tịch UBND tỉnh; từ 6/2010 làm Bí thư Tỉnh ủy
Đại hội đại hội tỉnh Hưng Yên lần thứ XVII
Từ ngày 19/9 đến 21/9/2010 tại Nhà văn hóa trung tâm tỉnh (thành phố Hưng Yên) đã diễn ra Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thức XVII. Đại hội đã bầu ra 55 ủy viên Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa XV. Hội nghị Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Hưng Yên lần thứ nhất (khóa XVII) đã bầu đồng chí Nguyễn Văn Cường làm Bí thư Tỉnh ủy.
Cây đa Sài Thị (Thuần Hưng, Khoái Châu) nơi thành lập Chi bộ cộng sản đầu tiên ở Hưng Yên
1. Đảng bộ tỉnh Hưng Yên được thành lập
Từ chi bộ cộng sản đầu tiên ở Sài Thị, chỉ với 7 đảng viên, được nhân dân ủng hộ, chở che, phong trào cộng sản đã không ngừng lớn mạnh, phát triển rộng khắp trong toàn tỉnh.
Năm 1930, nhóm Nông Hội đỏ ở Đại Quan (huyện Khoái Châu) đã cử người đến vận động thành lập tổ chức Nông Hội đỏ ở Đa Lộc (xã Đa Lộc, huyện Ân Thi). Cuối năm 1930, tổ chức cộng sản ở Ngọc Lập (xã Phùng Chí Kiên, huyện Mỹ Hào) được thành lập gồm 6 đồng chí.
Những năm 1931 – 1934, thực dân Pháp thẳng tay đàn áp, khủng bố dã man các cơ sở cách mạng của ta. Phong trào cách mạng của tỉnh gặp rất nhiều khó khăn, các cơ sở mất liên lạc với Xứ uỷ, với Trung ương, song dưới sự đùm bọc của quần chúng nhân dân, phong trào cộng sản trong tỉnh vẫn không ngừng lớn mạnh và phát triển rộng khắp.
Những năm 1936 - 1939, tình hình cách mạng trong nước có những chuyển biến mới, những chiến sỹ cách mạng bị bắt, tù đầy đã trở về chắp nối, gây dựng, củng cố lại cơ sở. Từ Đa Lộc (huyện Ân Thi) phát triển sang Thổ Cốc, Hoàng Xuyên (huyện Yên Mỹ). Tiếp đó là sự phát triển của cơ sở cách mạng ở Ngu Nhuế (huyện Văn Lâm), tháng 2/1938, chi bộ ghép Liễu Khê - Liễu Ngạn – Ngu Nhuế(*) (huyện Văn Lâm) được thành lập.
Trong giai đoạn này, sự ra đời của các tổ chức, các hội và phong trào cách mạng phát triển sôi nổi ở khắp các địa phương trong tỉnh, tiêu biểu như: Hội ái hữu ở Yên Tập (xã Nhân Hoà, huyện Mỹ Hào), Văn Nhuế (thị trấn Bần Yên Nhân, huyện Mỹ Hào), Hội An Nhân của nông dân huyện Tiên Lữ, Hội tương tế ở Xuân Cầu (xã Nghĩa Trụ, huyện Văn Giang), Đoàn Thanh niên dân chủ ở Quế Ải (huyện Phù Cừ)... Ngoài ra, các địa phương trong tỉnh còn thành lập các tổ chức hợp pháp như hội truyền bá quốc ngữ, hội tập võ, hội bát âm, tổ đọc sách báo để tập hợp quần chúng, tuyên truyền vận động nhân dân làm cách mạng...
Các tổ chức, các hội đã tích cực tham gia các cuộc đấu tranh từ cơ sở như chống hủ tục, chống phụ thu lạm bổ, đòi chia lại phe giáp. Nhân Ngày Quốc tế Lao động 1/5/1938, các cơ sở cách mạng ở Hưng Yên như cơ sở Ngu Nhuế (xã Lạc Đạo, huyện Văn Lâm), Hội tương tế Xuân Cầu (huyện Văn Giang) đã cử gần 200 đại biểu ra Hà Nội dự mít tinh. Cũng trong ngày 1/5/1938, tại Hưng Yên diễn ra nhiều cuộc mít tinh, tuần hành lớn tại khu vực ga Đình Dù (xã Đình Dù, huyện Văn Lâm). Các cuộc đấu tranh diễn ra rộng khắp ở các địa phương trong tỉnh.
Qua quá trình đấu tranh cách mạng, cuối năm 1940, đầu năm 1941 đã xuất hiện nhiều nhân tố tích cực, ưu tú trong phong trào cách mạng, trên địa bàn tỉnh đã tiếp tục ra đời các chi bộ Đảng, gồm chi bộ ghép Nhân Dục (Kim Động) – thị xã Hưng Yên, chi bộ ghép Ninh Thôn – Trai Thôn (huyện Ân Thi), chi bộ ghép Quế Lâm - Ải Quan (huyện Phù Cừ), chi bộ Ngải Dương (huyện Văn Lâm). Sự ra đời của các chi bộ đảng ở các địa phương đã thúc đẩy phong trào cách mạng trong tỉnh phát triển mạnh mẽ, tuy nhiên các tổ chức chưa thống nhất về một mối nên phong trào chưa đều khắp, đòi hỏi phải có sự thống nhất các tổ chức và cử ra cơ quan lãnh đạo chung.
Đầu tháng 7/1941, dưới sự chỉ đạo của Trung ương Đảng và Xứ uỷ Bắc kỳ, tỉnh đã mở Hội nghị các chi bộ Đảng ở Ninh Thôn (xã Cẩm Ninh, huyện Ân Thi). Hội nghị đã thảo luận tình hình trong nước, quốc tế, học Nghị quyết của Trung ương, bàn bạc, quyết định 04 vấn đề lớn, trong đó có một nội dung rất quan trọng là cử Ban Tỉnh uỷ lâm thời gồm 5 đồng chí*, đồng chí Liệu (Nguyễn Thanh Liệu) được cử làm Bí thư. Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Ban Tỉnh ủy lâm thời, phong trào cách mạng ở tỉnh ta phát triển cả bề rộng lẫn chiều sâu với một khí thế mới.
Cuối năm 1941, phong trào cách mạng gặp nhiều khó khăn. Địch tập trung về đàn áp phong trào cách mạng ở một số tỉnh trong đó có Hưng Yên. Một số đồng chí trong Ban Tỉnh ủy lâm thời bị bắt, phong trào cách mạng tạm lắng xuống.
Tuy nhiên, với tinh thần chủ động tiến công cách mạng, các đồng chí cán bộ, đảng viên vẫn tích cực liên lạc phát triển cơ sở mới, hướng dẫn quần chúng chống địch khủng bố.
Dưới danh nghĩa Ủy ban vận động Việt Minh, Tỉnh ủy phát thư kêu gọi đồng bào trong tỉnh hăng hái tham gia Việt Minh, tích cực tham gia các phong trào đấu tranh chống cướp thóc, chống nhổ ngô, nhổ lúa, trồng đay, trồng thầu dầu… Thư đã có tiếng vang lớn, những cuộc đấu tranh đòi hoãn thuế, bán thóc theo giá cả hợp lý đã diễn ra ở một số huyện như Ân Thi, Kim Động, Tiên Lữ…. Nhiều tăng ni đã giác ngộ đi theo cách mạng, nhiều nhà chùa là nơi che giấu, nuôi dưỡng cán bộ cách mạng. Đây thực sự là một thành công lớn, góp phần quan trọng vào việc khôi phục và phát triển phong trào cách mạng của tỉnh.
Đầu năm 1943, nhờ sự giúp đỡ của Xứ ủy, Ban Cán sự tỉnh được kiện toàn gồm 4 đồng chí*, đồng chí Ba Châu là Trưởng Ban Cán sự.
Quán triệt tinh thần Nghị quyết của Ban Thường vụ Trung ương Đảng (tháng 3/1943) và Nghị quyết của Xứ ủy (tháng 11/1943), Ban Cán sự tỉnh đã nhanh chóng khôi phục phong trào cách mạng, mở rộng mặt trận Việt Minh, phát triển lực lượng vũ trang, chuẩn bị cho cuộc đấu tranh giành chính quyền
Ý nghĩa lịch sử của việc thành lập Đảng bộ tỉnh Hưng Yên
- Hội nghị thống nhất các chi bộ đảng trong tỉnh ở Ninh Thôn có ý nghĩa lịch sử rất quan trọng, thể hiện sự lớn mạnh của phong trào cách mạng từ sau khi chi bộ đảng đầu tiên của tỉnh ra đời; khẳng định bước phát triển cao của phong trào phản đế địa phương.
- Là mốc son đánh dấu sự ra đời của Đảng bộ tỉnh Hưng Yên, thúc đẩy phong trào cách mạng trong tỉnh phát triển với một khí thế mới. Các đảng viên cộng sản tích cực tuyên truyền, vận động phong trào phản đế thành phong trào cứu quốc.
- Đảng bộ tỉnh Hưng Yên được thành lập đã lãnh đạo đảng viên và nhân dân thực hiện đúng đường lối, chủ trương của Trung ương Đảng, của Xứ uỷ và Liên Tỉnh B một cách nghiêm túc, sáng tạo phù hợp với điều kiện cụ thể của địa phương, tạo được phong trào cách mạng không ngừng lớn mạnh, trưởng thành, vững vàng dẫn dắt phong trào cách mạng của Hưng Yên trong thời kỳ mới.
2. Đảng bộ lãnh đạo nhân dân trong tỉnh đấu tranh khởi nghĩa giành chính quyền, giữ vững chính quyền cách mạng và kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (8/1945-10/1954)
Đầu năm 1945, phong trào cách mạng đã có chuyển biến đáng kể, tạo điều kiện mau chóng chuyển phong trào cách mạng trong tỉnh lên thành cao trào. Cao trào chống Nhật cứu nước diễn ra sôi nổi, mạnh mẽ trong toàn tỉnh. Mở đầu là trận đánh đồn Bần đêm 12/3/1945, đã giành được được thắng lợi giòn giã, khích lệ tinh thần chiến đấu của quân và dân Hưng Yên.
Chiến thắng đồn Bần đã tạo được khí thế mới, tạo đà cho các cuộc đấu tranh phá kho thóc của Nhật chia cho nhân dân diễn ra ngày càng nhiều ở hầu hết các huyện trong tỉnh. Lực lượng Việt Minh được củng cố và tăng cường, các đoàn thể cứu quốc, các đội tự vệ phát triển.
Tháng 8/1945, Đảng bộ tỉnh kết hợp chỉ đạo kịp thời, kiên quyết, linh hoạt của tỉnh với việc phát huy tinh thần chủ động, sáng tạo của các địa phương và của quần chúng ở các cơ sở, tạo nên những cơ hội hành động mau lẹ, liên tục tấn công địch, thúc đẩy điều kiện khởi nghĩa chín muồi.
Ngày 14 và 15/8/1945, Hội nghị toàn quốc của Đảng họp ở Tân Trào (Tuyên Quang); ngày 16/8/1945, Kỳ bộ Việt Minh ra Thông báo khẩn cấp gửi chỉ huy các tỉnh. Đêm 14/8/1945, Việt Minh huyện Phù Cừ đã chớp thời cơ tấn công vào huyện đường giành được thắng lợi. Tiếp theo Phù Cừ, các huyện khác đều khẩn trương khởi nghĩa giành chính quyền. Chỉ trong vòng 01 tuần từ ngày 14 đến ngày 22/8/1945, các huyện, thị trong toàn tỉnh đã khởi nghĩa giành chính quyền. Ngày 23/8/1945, Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời tỉnh Hưng Yên được thành lập.
Thắng lợi của cuộc Tổng khởi nghĩa vũ trang nhanh gọn ở Hưng Yên góp phần vào thắng lợi chung của cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 trên cả nước, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Nhà nước Dân chủ Nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á.
Trong điều kiện vừa giành được chính quyền, nước ta còn gặp vô vàn khó khăn: thù trong giặc ngoài, nạn đói, nạn dốt, hạn hán, lụt lội đe dọa. Giữa lúc đó, ngày 10/01/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh về thăm Hưng Yên, Bác động viên đồng bào Hưng Yên tích cực đắp đê phòng lụt, đoàn kết chặt chẽ, cố gắng làm việc, giúp đỡ kháng chiến chống thực dân Pháp.
Thực hiện Chỉ thị “Kháng chiến kiến quốc” của Trung ương và Lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng bộ Hưng Yên tập trung giải quyết các nhiệm vụ cấp bách trước mắt là cứu đói và xoá nạn mù chữ, xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng, khắc phục hậu quả của chế độ cũ để lại; đấu tranh chống âm mưu phá hoại của bọn Tưởng và bè lũ tay sai phản động; đấu tranh đòi thi hành Hiệp định Sơ bộ (6/3) và chuẩn bị mọi mặt cho kháng chiến.
Đầu tháng 7/1946, Đảng bộ tỉnh Hưng Yên họp Hội nghị đại biểu tại xã Chiến Thắng (huyện Ân Thi) gồm 52 đại biểu. Hội nghị kiểm điểm quá trình công tác, đặt chương trình hoạt động và cử Ban chấp hành Tỉnh uỷ gồm 7 đồng chí, đồng chí Vũ Duy Hiệu làm Bí thư. Do tình hình lúc đó Đảng phải tạm thời chuyển vào hoạt động bí mật, nên tuyên bố “Tự giải tán”, tổ chức Đảng gọi là “Hội nghiên cứu chủ nghĩa Mác”, Đảng bộ tỉnh gọi là “Hội bộ”. Từ sau Cách mạng Tháng Tám thành công, nhất là sau Hội nghị Đảng bộ tỉnh, công tác phát triển Đảng được đẩy mạnh. Tổng khởi nghĩa Tháng Tám, toàn tỉnh mới có 35 đảng viên; tháng 12/1945 có 134 đảng viên; đến ngày Toàn quốc kháng chiến (19/12/1946) Đảng bộ tỉnh đã có 88 chi bộ (trong đó có 32 chi bộ ghép) với 629 đảng viên.
Từ ngày 10/5 đến ngày 14/5/1947 tại Trà Bồ (xã Phan Sào Nam, huyện Phù Cừ), Đảng bộ Hưng Yên tiến hành Đại hội lần thứ nhất. Dự Đại hội có 150 đại biểu. Đại hội tổng kết tình hình qua 4 tháng trực tiếp chiến đấu với địch, đồng thời quán triệt đường lối kháng chiến của Đảng về những vấn đề cơ bản như quan điểm chiến tranh nhân dân, phương châm đánh lâu dài, tự lực cánh sinh. Đại hội khẳng định: kẻ thù dù đông quân, vũ khí trang bị kỹ thuật hiện đại, nhưng không thể khuất phục được tinh thần yêu nước, quyết tâm kháng chiến của nhân dân ta. Đại hội đề ra những nhiệm vụ về chính trị, quân sự, kinh tế, văn hoá, giáo dục và quyết định thành lập trường huấn luyện đào tạo cán bộ, đặt tên là “Trường Tháng 8”. Đại hội bầu Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh gồm 11 đồng chí, đồng chí Lê Thành được bầu làm Bí thư Tỉnh uỷ.
Từ ngày 5/2 - 8/2/1948 tại đình Hoàng Xá (xã Trung Dũng, huyện Tiên Lữ), đã tiến hành Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ II. Dự Đại hội có 145 đại biểu. Đại hội phổ biến Nghị quyết Hội nghị đại biểu Liên Khu 3 lần thứ nhất; kiểm điểm công tác Ban chấp hành, xác định chương trình hành động. Đại hội bầu Ban chấp hành Đảng bộ gồm 11 uỷ viên chính thức và 2 uỷ viên dự khuyết, đồng chí Lê Thành được bầu làm Bí thư Tỉnh uỷ.
Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ II và lời Bác dạy cán bộ tỉnh Hưng Yên tại Hội nghị dân quân toàn quốc tại Việt Bắc tháng 4/1948: “Các cô, các chú không có rừng cây, nhưng có rừng dân, dựa vào dân mà kháng chiến”, quân và dân Hưng Yên không quản hy sinh, liên tục đứng lên, liên tục chiến đấu bảo vệ quê hương. Đặc biệt từ cuối năm 1949, toàn bộ địa bàn Hưng Yên nằm trong vùng kiểm soát của địch, cả tỉnh có 360 làng thì có 360 hương đồn, tháp canh, bốt địch, song quân và dân Hưng Yên vẫn kiên trì bám trụ, vận dụng sáng tạo đường lối kháng chiến của Đảng, bám đất, bám dân, gây dựng cơ sở, phát triển phong trào, mở các khu du kích, huy động sức mạnh của toàn dân để đánh địch.
Từ ngày 15/7 - 19/7/1949, tại thôn Lệ Chi (xã Thuỵ Lôi, huyện Tiên Lữ), Đảng bộ tỉnh tiến hành Đại hội lần thứ III. Dự đại hội có 150 đại biểu. Đại hội kiểm điểm mọi mặt công việc kháng chiến; công tác lãnh đạo đấu tranh trực tiếp với địch trong vùng tạm chiếm phía Bắc và đề ra nhiệm vụ mới theo tinh thần “tích cực cầm cự chuẩn bị tổng tiến công”. Đại hội bầu Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh gồm 15 đồng chí, đồng chí Trịnh Quý Dần được bầu làm Bí thư Tỉnh uỷ.
Thực hiện sự lãnh đạo của Trung ương; Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ III và lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, mặc dù là tỉnh bị thực dân Pháp liên tục mở các cuộc càn quét lớn, có cuộc càn quét kéo dài cả chục ngày, tràn qua địa bàn tỉnh. Nhiều nơi địch kiểm soát ban ngày, ban đêm thuộc về ta, những trận đánh du kích liên tục diễn ra ở khắp nơi. Nổi bật là chiến công của đội nữ Du kích Hoàng Ngân hoá trang đánh địch trên đường 39 (trận nữ du kích Hoàng Ngân thị xã đánh địch tại chùa Diều); các trận quân chủ lực và du kích kết hợp như đánh bốt Thọ Lão, bao vây bốt Viên Quang ta tiêu diệt cả trung đội địch, đáng chú ý là chiến công ở Phan Tống Xá, Long Cầu và Phú Mãn đã loại khỏi vòng chiến đấu 1.050 tên địch, tạo những tiếng vang rất lớn…
Từ những làng du kích, Hưng Yên đã mở được các khu du kích liên hoàn. Tiếp theo là những chiến công trên đường 5 và đường sắt, góp phần tạo lên “Sấm Đường 5” vang dội …
Với những chiến công đó, năm 1952, quân và dân Hưng Yên đã vinh dự được nhận cờ Bác tặng “Đoàn kết nhân dân đánh thắng giặc Pháp”.
Ngoài việc đánh giặc giỏi, quân và dân Hưng Yên còn tích cực mở các lớp “bình dân học vụ” để chống giặc dốt. Năm 1952 trong bài báo Bác viết gửi cho báo Phương Tây có đoạn: “Bất chấp những nguy hiểm và khó khăn của một tỉnh bị chiếm đóng, Hưng Yên vừa chiến đấu chống thực dân Pháp, vừa chống giặc dốt. Việc thanh toán nạn mù chữ được làm trong vòng bí mật. Riêng năm 1951 đã có hơn 460 lớp học bí mật được tổ chức với 3.120 học viên”.
Trong kháng chiến chống Pháp, nhân dân Hưng Yên đã tập hợp cao nhất sức người, sức của cho kháng chiến trên địa bàn và chi viện cho các chiến trường, nhất là chiến trường Điện Biên Phủ.
Qua 9 năm kháng chiến trường kỳ, gian khổ, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh, quân và dân Hưng Yên đã chiến đấu 9.022 trận, tiêu diệt 19.275 tên địch (trong đó có 752 lính Âu, 336 lính Phi), bắt sống 4.917 tên, gọi hàng 12.052 tên. Chiến lợi phẩm thu được 2 đại bác, 12 trọng liên, 31 đại liên, 263 trung liên, 454 tiểu liên, 2.933 súng trường, 69 súng cối, 2 khẩu ĐKZ, 270 máy vô tuyến điện. Phá huỷ 483 khẩu súng, 240 xe quân sự, 62 xe tăng, 27 xe thiết giáp, 52 đầu tầu hoả, 154 toa tàu, bắn rơi 2 máy bay, bắn đắm 1 tàu chiến, 7 ca nô. Quân dân tỉnh ta đã đánh địch bằng mọi thứ vũ khí có trong tay, đánh địch ở mọi lúc mọi nơi, làm thành một “Thiên la địa võng” của chiến tranh du kích, trở thành tỉnh có phong trào chiến tranh nhân dân phát triển cao ở đồng bằng Bắc Bộ… Những chiến công đó đã góp phần cùng cả nước đánh thắng thực dân Pháp xâm lược.
Với thành tích đó, Hưng Yên được Bác Hồ gửi thư khen, tặng cờ, cùng hiện vật cho các đơn vị, tập thể và cá nhân, được Đảng và Nhà nước khen tặng 10 Huân chương Quân công, 30 Huân chương Chiến công, cùng hàng vạn huân, huy chương các loại cho các đơn vị, cá nhân và gia đình có công lao, thành tích trong kháng chiến. Hàng trăm cá nhân lập được thành tích xuất sắc trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu, sản xuất giỏi được bầu là Chiến sĩ thi đua các cấp, trong đó có 9 người được phong tặng, truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân…
3. Đảng bộ lãnh đạo khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục kinh tế, cải tạo, xây dựng chủ nghĩa xã hội, chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ (1954-1967)
Sau giải phóng quê hương 1954, Đảng bộ và nhân dân Hưng Yên đã bắt tay khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh, cải tạo sản xuất và phát triển văn hóa xã hội, xây dựng quê hương. Tại Hội nghị mở rộng từ ngày 21/8 đến ngày 23/8/1954, Tỉnh uỷ đã đề ra chủ trương: tập trung tuyên truyền, giáo dục để toàn dân nhận thức đúng, chấp hành nghiêm chỉnh Hiệp định đình chiến đã ký, nhận rõ âm mưu, thủ đoạn của đế quốc Mỹ, thực dân Pháp và bè lũ tay sai; đề cao tinh thần trách nhiệm trong công tác, tích cực phát triển sản xuất, ổn định sinh hoạt ở các vùng nông thôn.
Giữa năm 1955, thực hiện Nghị quyết lần thứ 4 của Ban chấp hành Trung ương Đảng (khoá II) về tình hình trước mắt và nhiệm vụ cải cách ruộng đất, Tỉnh uỷ đã phát động quần chúng tiến hành cải cách ruộng đất. Qua cải cách ruộng đất, tỉnh đã giải quyết được nguyện vọng của nhân dân, người nông dân đã thực sự làm chủ ở nông thôn cả về chính trị và kinh tế.
Thực hiện Nghị quyết của Hội nghị lần thứ 14 Ban chấp hành Trung ương Đảng (tháng 11/1958), Tỉnh uỷ đã xác định rõ nhiệm vụ trọng tâm trong thời gian từ 1958-1960 là xoá bỏ làm ăn riêng lẻ, đưa nông dân vào làm ăn tập thể, thực hiện hợp tác hoá. Đến cuối năm 1959, Hưng Yên đã có 95% số hộ vào tổ đổi công.
Phát triển sản xuất nông nghiệp là đòi hỏi bức thiết, song Hưng Yên chưa có hệ thống thuỷ nông, tình trạng hạn hán và úng ngập rất gay gắt. Trước tình hình đó, Tỉnh uỷ xác định: "Thuỷ lợi đi trước một bước" và chỉ đạo các cấp, các ngành trong tỉnh tập trung tạo mọi điều kiện thúc đẩy công tác thuỷ lợi.
Ngày 5/1/1958, Chủ tịch Hồ Chí Minh về thăm Hưng Yên, nói chuyện với cán bộ và nhân dân, Người nói: "Làm thuỷ lợi khó nhọc trong vài năm để được sung sướng muôn đời". Thực hiện lời dạy của Bác Hồ, Đảng bộ tỉnh đã lãnh đạo nhân dân đạt được nhiều thành tích trong công tác thuỷ lợi, đây là một bước quan trọng để đẩy lùi hạn hán và úng ngập, mở rộng diện tích canh tác, tăng sản lượng lúa và hoa màu…
Từ ngày 8/3 - 15/3/1959, tại Hội trường Trường Đảng tỉnh đã diễn ra Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ IV. Dự đại hội có 131 đại biểu chính thức và 14 đại biểu dự khuyết. Nội dung chủ yếu của Đại hội được tóm tắt thành “Tứ hoá”, gồm: thuỷ lợi hoá, hợp tác hoá, bổ túc văn hoá và quân sự hoá. Đại hội bầu Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh gồm 25 ủy viên chính thức và 5 ủy viên dự khuyết. Đồng chí Lê Quý Quỳnh được bầu làm Bí thư Tỉnh ủy.
Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh, phong trào “tứ hoá” của tỉnh đã phát triển đồng đều, dân trí được nâng lên, đã áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất, xây dựng lực lượng vũ trang, bảo vệ quê hương. Phong trào đã có tác dụng rất lớn đối với việc phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh và công tác xây dựng Đảng của Đảng bộ, thể hiện sự kết hợp giữa củng cố, xây dựng, phát triển kinh tế với văn hoá và quốc phòng.
Với những thành tích đạt được năm 1960, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh tặng thưởng Huân Chương Lao động hạng Ba cho cán bộ và nhân dân Hưng Yên, vì đã đạt nhiều thành tích trong Bổ túc văn hoá. Trung ương Đảng tặng cờ dẫn đầu vể Bổ túc văn hoá. Đối với quân sự hoá, Hưng Yên là tỉnh nhiều năm dẫn đầu Quân khu Tả ngạn…
Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ V được tiến hành 2 vòng:
Vòng 1 từ ngày 27/6 đến 6/7/1960 tại thị xã Hưng Yên. Dự đại hội có 244 đại biểu chính thức, 18 đại biểu dự khuyết. Đại hội đã tập trung thảo luận góp ý vào Dự thảo Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương và bầu đoàn đại biểu đi dự Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III gồm 9 đại biểu chính thức, 01 đại biểu dự khuyết.
Vòng 2 từ ngày 21/3 đến 29/3/1961 tại thị xã Hưng Yên. Dự đại hội có 225 đại biểu chính thức. Đại hội đã đề ra các phương hương và biện pháp nhằm thực hiện tốt kế hoạch 5 năm lần thứ nhất. Đại hội đã bầu BCH khóa V gồm 25 ủy viên chính thức, 6 ủy viên dự khuyết. Đồng chí Lê Quý Quỳnh được bầu làm Bí thư Tỉnh ủy.
Từ ngày 6/9 - 10/9/1963, tại Hội trường Trường Đảng tỉnh đã diễn ra Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ VI. Dự đại hội có 242 đại biểu chính thức và 18 đại biểu dự khuyết. Đại hội đã đánh giá tình hình kinh tế - xã hội của Hưng Yên trong ba năm đầu thực hiện Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất và đề ra mục tiêu, nhiệm vụ cụ thể cho nhiệm kỳ tới. Đại hội bầu Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh gồm 17 ủy viên chính thức và 2 ủy viên dự khuyết. Đồng chí Lê Quý Quỳnh được bầu làm Bí thư Tỉnh ủy.
Thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ III của Đảng, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ V và lần thứ VI, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh, nhân dân Hưng Yên nỗ lực phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ kinh tế - xã hội… Đảng bộ tỉnh đã có bước trưởng thành, đến năm 1965 có 15.596 đảng viên, trong đó có 11.329 đảng viên nông thôn.
Giữa lúc Đảng bộ và nhân dân Hưng Yên đang dồn sức thi đua thực hiện thắng lợi kế hoạch 5 năm lần thứ nhất thì đế quốc Mỹ điên cuồng mở cuộc chiến tranh leo thang phá hoại miền Bắc, tăng cường chiến tranh xâm lược miền Nam. Tình thế cách mạng của dân tộc ta chuyển sang giai đoạn mới: cả nước có chiến tranh, chống Mỹ cứu nước trở thành nhiệm vụ cấp bách và thiêng liêng của cả dân tộc. Trong điều kiện vừa sản xuất vừa chiến đấu, Đảng bộ tỉnh đã lãnh đạo nhân dân tập trung cao độ xây dựng hậu phương vững mạnh, tăng cường tiềm lực kinh tế và quốc phòng, đáp ứng yêu cầu cách mạng của cả nước. Tỉnh ta đã thực hiện tốt các cuộc vận động xây dựng Đảng bộ Bốn tốt; Chính quyền Hai tốt; Mặt trận Ba gương mẫu, Hai tích cực; Thanh niên Ba sẵn sàng; Phụ nữ Ba đảm đang; Thiếu niên Nghìn việc tốt; Nhà trường phổ thông Hai tốt; Hợp tác xã Hai giỏi…
Với khẩu hiệu: Tất cả vì miền Nam ruột thịt, tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược… Đến năm 1965 tỉnh ta đã gieo cấy đạt 112% kế hoạch, đây là diện tích đạt cao nhất từ ngày hòa bình lập lại. Phong trào trại chăn nuôi tập thể, phong trào vườn cây, ao cá Bác Hồ được phát triển ở hầu hết các xã trong tỉnh. Đặc biệt đối với phong trào làm thủy lợi, đã xây dựng hàng trăm công trình trung, tiểu thủy nông và trạm bơm lớn, nhỏ, để giải quyết khó khăn về hạn và úng cho 37.989 ha diện tích cấy, trồng. Với những thành tích to lớn trên mặt trận thủy lợi, Đảng bộ và nhân dân Hưng Yên đã vinh dự được Bác Hồ tặng Cờ luân lưu “Làm thủy lợi khá nhất” miền Bắc 4 lần.
Công tác văn hóa giáo dục phát triển khá mạnh, công tác bổ túc văn hóa là nhiệm vụ quan trọng, là yêu cầu cấp thiết để nâng cao trình độ cho cán bộ, cho nhân dân lao động, tạo điều kiện để phổ biến khoa học kỹ thuật. Với kết quả của phong trào bổ túc văn hóa, Hưng Yên được tặng thưởng Huân chương Lao động Hạng Nhì, huyện Phù Cừ được Bác gửi thư khen ngợi cán bộ, nhân dân đã tích cực học văn hoá đạt kết quả tốt.
4. Thời kỳ Đảng bộ Hưng Yên hợp nhất với Đảng bộ Hải Dương thành Đảng bộ tỉnh Hải Hưng (1969 - 1996)
Năm 1968 tỉnh Hưng Yên hợp nhất với tỉnh Hải Dương thành tỉnh Hải Hưng; thực hiện tốt hai nhiệm vụ chiến lược: Xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, tiến hành công cuộc đổi mới của Đảng (1968 - 1996).
Ngày 26/1/1968, Ủy ban Thường vụ Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra Quyết định số 504-QĐ/TVQH về việc hợp nhất hai tỉnh Hưng Yên và Hải Dương thành tỉnh Hải Hưng, tỉnh lỵ đặt tại thị xã Hải Dương. Sau khi hợp nhất, Ban Chấp hành lâm thời Đảng bộ tỉnh Hải Hưng có 46 ủy viên (Hưng Yên 15 ủy viên, Hải Dương 31 ủy viên), trong đó có 13 ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy. Theo sự chỉ định của Trung ương, đồng chí Lê Quý Quỳnh làm Bí thư Tỉnh ủy; đồng chí Nguyễn Hoài Bắc, Phó bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Ủy ban hành chính tỉnh.
Hải Hưng là tỉnh lớn, nằm ở trung tâm châu thổ đồng bằng Bắc bộ, chiếm 21,7% tổng diện tích đồng bằng Bắc bộ, số dân 1.630.000 người, mật độ 632 người/km2, là tỉnh đông dân của miền Bắc, nằm giáp thủ đô Hà Nội và thành phố Hải Phòng. Hải Hưng có vị trí trọng yếu về kinh tế, nhất là kinh tế nông nghiệp, sản lượng lương thực hàng năm đạt 600.000 tấn, chiếm 13% tổng số sản lượng miền Bắc. Hải Hưng có đồng ruộng phì nhiêu, có đồi rừng và tài nguyên khoáng sản là những điều kiện tự nhiên thuận lợi để phát triển kinh tế, xã hội.
Ngày 29-30/12/1972: Tỉnh Hải Hưng tổ chức Hội nghị tổng kết công tác nông nghiệp năm 1972. Năm 1972, lần đầu tiên trong sản xuất nông nghiệp, Hải Hưng đạt 5 tấn thóc/ha gieo trồng.
Ngày 11-20/11/1976: Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Hải Hưng lần thứ II (vòng 1). Đại hội đã nghiên cứu, thảo luận, đóng góp ý kiến và thống nhất cao hai dự thảo văn kiện quan trọng là: Đề cương báo cáo chính trị và Điều lệ (sửa đổi) của Đảng. Đại hội bầu đoàn đại biểu đi dự Đại hội lần thứ IV của Đảng gồm 34 đồng chí. Đồng chí Nguyễn Khai, ủy viên dự khuyết Trung ương Đảng, Phó Trưởng ban Tổ chức về dự và nói chuyện với Đại hội
Ngày 30/10-3/11/1979: Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Hải Hưng lần thứ III được tổ chức tại thị xã Hải Dương. Đại hội có trên 500 đại biểu đại diện cho hơn 8 vạn đảng viên trong toàn Đảng bộ về dự. Đại hội kiểm điểm kết quả thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ II trong 3 năm (1977-1979) và đề ra mục tiêu kinh tế- xã hội cho 2 năm (1980-1981). Đại hội xác định 3 nhiệm vụ cấp bách trong giai đoạn mới là:
Đại hội bầu Ban chấp hành Đảng bộ gồm 43 ủy viên, trong đó có 4 ủy viên dự khuyết. Ban Thường vụ Tỉnh ủy gồm 13 ủy viên, đồng chí Ngô Duy Đông, Ủy viên BCH Trung ương Đảng, được bầu làm Bí thư Tỉnh ủy.
Ngày 6-14/1/1982: Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Hải Hưng lần thứ IV (vòng 1). Về dự có 522 đại biểu, đồng chí Lê Thanh Nghị- ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Phó Chủ tịch Hội đồng Nhà nước về dự Đại hội. Đại hội đã phân tích sâu sắc những chủ trương có tính chất chiến lược của cách mạng nước ta, đề ra những mục tiêu kinh tế- xã hội trong những năm 80 và phương hướng kế hoạch cụ thể cho 5 năm (1981-1985) của tỉnh.
Ngày 25-29/1/1983: Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Hải Hưng lần thứ IV (vòng 2). Về dự Đại hội có hơn 500 đại biểu. Đại hội đã thông qua Nghị quyết và phương hướng nhiệm vụ, mục tiêu kinh tế - xã hội năm 1983 và mức phấn đấu đến năm 1985 của tỉnh, Đại hội bầu Ban chấp hành Đảng bộ khóa IV gồm 41 ủy viên chính thức và 4 ủy viên dự khuyết. Đồng chí Ngô Duy Đông được bầu lại làm Bí thư Tỉnh ủy
Ngày 20/7/1985: Nhân dịp kỷ niệm lần thứ 40 cách mạng Tháng 8 và Quốc khánh 2/9, Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh tổ chức trọng thể Lễ đón nhận Huân chương sao vàng- Huân chương cao quý nhất của Nhà nước tặng nhân dân, cán bộ, chiến sĩ Hải Hưng về công lao và thành tích to lớn trong cách mạng dân tộc dân chủ, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Ngày 12/9/1985: Ban Thường vụ Tỉnh ủy ra Nghị quyết 41 về "Cải tiến quản lý kinh tế, xóa bỏ quan liêu bao cấp, thực hiện cơ chế và phân phối theo lao động trong hợp tác xã nông nghiệp". Nghị quyết này nhằm mở đường cho giai cấp nông dân tập thể Hải Hưng sản xuất theo hướng hạch toán kinh tế kinh doanh xã hội chủ nghĩa, thúc đẩy sản xuất nông nghiệp phát triển, đảm bảo quyền lợi, hiệu quả cho người lao động.
Ngày 20-25/10/1986: Đảng bộ Hải Hưng tổ chức Đại hội đại biểu lần thứ V tại thị xã Hải Dương, 505 đại biểu chính thức thay mặt cho hơn 115 nghìn đảng viên về dự. Đại hội nghiên cứu, quán triệt góp ý với dự thảo Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng trình tại Đại hội toàn quốc lần thứ VI, xây dựng những nhiệm vụ mục tiêu kinh tế-xã hội và các biện pháp thực hiện trong 5 năm (1986-1990)
Đại hội đã bầu Ban chấp hành Đảng bộ mới gồm 56 đồng chí, trong đó có 13 đồng chí là ủy viên dự khuyết. Ban Thường vụ Tỉnh ủy gồm 13 đồng chí, đồng chí Lê Đức Bình, Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Phó Trưởng ban Tổ chức Trung ương Đảng được bầu làm Bí thư Tỉnh ủy.
Ngày 1/4/1989: Tổng điều tra dân số trong cả nước. Tính đến 0 giờ ngày 1/4/1989 ở Hải Hưng có 2.440.000 người, trong đó nam có 1.148.000 người và nữ có 1.292.000 người.
Ngày 15-17/8/1991: Đại hội Đảng bộ tỉnh Hải Hưng lần thứ VI . Về dự Đại hội có 404 đại biểu. Đại hội đã nghe, quán triệt sâu sắc các Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng, nghe báo cáo chính trị của Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa V và thông qua Nghị quyết, phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu chủ yếu 5 năm (1991-1995). Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa V (1986-1990), trình Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh khóa VI đã đánh giá kết quả thực hiện đổi mới trên các lĩnh vực.
Đại hội đã bầu Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa VI gồm 53 đại biểu. Đồng chí Phạm Văn Thọ được bầu là Bí thư Tỉnh ủy.
Ngày 6/9/1993: Đài phát thanh truyền hình tỉnh lắp máy phát hình mới. Đây là hệ thống máy phát hình mầu, hiện đại. Công suất 1KW-VHF, kênh 70FFSET, ký hiệu PCN-1401 SH/1 băng III được nhập từ Nhật Bản. Đài có khả năng phủ sóng trên phạm vi toàn tỉnh.
Ngày 6- 9/5/1996, Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Hải Hưng lần thứ VII tại thị xã Hải Dương. Về dự Đại hội có trên 350 đại biểu. Đại hội đã nghe báo cáo về những thành tựu nổi bật 5 năm (1991-1995):
Kinh tế Hải Hưng đã thoát ra khỏi suy phát triển liên tục với tốc độ nhanh. Nông nghiệp phát triển tương đối toàn diện, tổng thu ngân sách trên địa bàn tăng bình quân 34%, đáp ứng được nhu cầu chi thiết yếu.
Đời sống văn hóa, xã hội có nhiều tiến bộ. Đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Đổi mới hệ thống chính trị, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân.
Đại hội đã bầu Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa VII gồm 49 đồng chí. Đồng chí Phạm Văn Thọ được bầu làm Bí thư Tỉnh ủy.
Ngày 6/11/1996, Quốc hội khóa IX, kỳ họp thứ 10 phê chuẩn việc phân chia lại địa giới hành chính tỉnh. Hải Hưng được tách ra làm hai tỉnh; Hưng Yên và Hải Dương. Tỉnh Hưng Yên có diện tích tự nhiên là 923,09km2, dân số 1.075.517 người, gồm 6 đơn vị hành chính cấp huyện: thị xã Hưng Yên, Mỹ Văn, Châu Giang, Phù Tiên, Ân Thi, Kim Động. Vị trí địa lý, phía bắc giáp tỉnh Bắc Ninh và thủ đô Hà Nội; phía đông giáp tỉnh Hải Dương; phía Nam giáp tỉnh Thái Bình và Hà Nam; phía tây giáp tỉnh Hà Nam, Hà Tây và thủ đô Hà Nội.
Nhân dân Hưng Yên vui mừng chào đón ngày tái lập tỉnh (1/1/1997)
5. Tỉnh Hưng Yên được tái lập, Đảng bộ tỉnh lãnh đạo thực hiện sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Từ ngày 11/11 đến 13/11/1997 , tại Nhà văn hóa Trung tâm tỉnh(thị xã Hưng Yên ), Đảng bộ tỉnh đã tổ chức Đại hội lần thứ XIV. Đại hội đã bầu 43 đồng chí làm ủy viên Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Hưng Yên. Đồng chí Đặng Văn Cảo được bầu làm Bí thư Tỉnh ủy
Từ ngày 02/1 đến 04/1/2001, Đảng bộ tỉnh Hưng Yên đã tổ chức Đại hội lần thứ XV. Đại hội đã bầu ra Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa XV gồm 43 ủy viên. Hội nghị Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Hưng Yên lần thứ nhất (khóa XV) đã bầu đồng chí Phạm Đình Phú làm Bí thư Tỉnh ủy.
Từ ngày 18/12 đến 21/12/2005 , tại Nhà văn hóa Trung tâm tỉnh(thị xã Hưng Yên ), Đảng bộ tỉnh đã tổ chức Đại hội lần thứ XVI. Đại hội đã bầu 49 đồng chí làm ủy viên Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Hưng Yên. Đồng chí Nguyễn Đình Phách được bầu làm Bí thư Tỉnh ủy từ (12/2005 – 12/2008). Đồng chí Cao Văn Cường, Bí thư Tỉnh ủy (từ 4/2009 – 3/2010)
Từ tháng 4/2010, đồng chí Nguyễn Văn Cường làm Bí thư Tỉnh ủy, kiêm Chủ tịch UBND tỉnh; từ 6/2010 làm Bí thư Tỉnh ủy
Đại hội đại hội tỉnh Hưng Yên lần thứ XVII
Từ ngày 19/9 đến 21/9/2010 tại Nhà văn hóa trung tâm tỉnh (thành phố Hưng Yên) đã diễn ra Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thức XVII. Đại hội đã bầu ra 55 ủy viên Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa XV. Hội nghị Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Hưng Yên lần thứ nhất (khóa XVII) đã bầu đồng chí Nguyễn Văn Cường làm Bí thư Tỉnh ủy.
Nguồn tin: hungyentv.vn
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn