Giáo sư, Viện sĩ Phạm Huy Thông
Phạm Huy Thông sinh ngày 22/11/1916, quê gốc ở làng Đào Xá (còn gọi là Đào Quạt), xã Bãi Sậy, huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên. Quê hương ông là vùng đất nổi tiếng với nhiều truyền thuyết dân gian và những chiếu chèo sân đình rộn rã một thời. Chẳng biết từ bao giờ, những lờ ca ngợi quê hương Đào Xá đã in vào tâm thức và trở thành niềm tự hào của mỗi người con đi xa.
Đào Xá tên gọi là làng
Làng em nhất xã chia làm ba thôn
Làng em đã nức tiếng đồn
cả làng làm quạt bán buôn đủ nghề
Nhiều người đi học, đi thi
Người thì đỗ trạng, người thì vinh hoa...
Truyền thống quê hương, truyền thống gia đình đã sớm tạo ra cho Phạm Huy Thông một nền tảng căn bản và vững chắc. Năm 17 tuổi, ông đỗ tú tài, 20 tuổi trở thành cử nhân luật. Từ năm 1937 đến năm 1945 ông du học ở Pháp. Sau khi hoàn thành luận án tiến sĩ Luật khoa, ông làm tiếp luận án thạc sĩ Sử học và học thêm một số ngoại ngữ như Trung Quốc, Nhật Bản, Đức v.v...
Bên cạnh sự nghiệp khoa học ngày càng mở rộng, Phạm Huy Thông còn tham gia hoạt động chính trị theo yêu cầu của đất nước thời kỳ đó. Từ năm 1940 đến 1945 ông tham gia tổ chức Ái Hữu của Việt kiều tại Pháp. Năm 1946, Hồ Chủ Tịch cùng phái đoàn chính phủ ta sang Pháp dự hội nghị Phôngtennơbờlô, Phạm Huy Thông được chọn làm thư ký cho Bác và thư ký hội nghị. Việc tiếp xúc với Hồ Chủ tịch đã nâng sự hiểu biết và nhận thức của nhà khoa học Phạm Huy Thông lên một tầm cao mới. Sau khi Bác về nước, Phạm Huy Thông vẫn được tiếp tục giao trách nhiệm thực hiện một số nhiệm vụ khác.
Ba mươi tuổi, Phạm Huy Thông đã trở thành Giáo sư. Hơn 40 năm hoạt động, Giáo sư Phạm Huy Thông đã giữ nhiều trọng trách như: Phó chủ nhiệm Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam (nay là Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn Quốc gia); Viện trưởng Viện Khảo cổ học; Quyền Chủ tịch kiêm Tổng thư ký Hội khoa học lịch sử; Hiệu trưởng trường Đại học Sư phạm Hà Nội; Chủ tịch Hội Du lịch Hà Nội; Đại biểu Quốc hội khóa II, khóa III.
Giáo sư Phạm Huy Thông đã thể hiện là một người đặc biệt có tài về tổ chức và kinh nghiệm lãnh đaọ. Thể hiện khi giáo sư lãnh đạo Viện Nghiên cứu khảo cổ học nghiên cứu thành công đề tài “Thời đại các Vua Hùng dựng nước”, “Khảo cổ học 10 thế kỷ sau công nguyên”, “Khảo cổ học với văn minh thời Trần”... Góp phần làm cho đất nước ta trở thành một quốc gia có nền khảo cổ học mạnh nhất Đông Nam á.
Không chỉ tham gia hoạt động và có uy tín trong nhiều lĩnh vực thuộc khoa học xã hội ở Việt Nam, giáo sư Phạm Huy Thông còn là người được bạn bè quốc tế quý trọng. Ông được bầu là Viện sĩ Viện hàn lâm khoa học Cộng hòa dân chủ Đức, là sáng lập viên của tổ chức quốc tế về Giáo dục và Ủy viên Hội đồng hòa bình thế giới trong nhiều năm.
Phạm Huy Thông còn được biết đến như một nhà thơ tài danh đã được Hoài Thanh - Hoài Chân viết trong cuốn Thi nhân Việt Nam. 16 tuổi ông đã nổi tiếng tiên phong trong phong trào Thơ Mới. Tuy nhiên sự nghiệp thi ca của ông tập trung chủ yếu trong khoảng sáu năm đầu đời của tuổi thanh niên. Ông là người khai mở cho thể loại kịch thơ với 2 tác phẩm nổi tiếng: Anh Nga và Tiếng địch sông Ô.
Chỉ trong một thời gian rất ngắn, ông đã cho ra đời bốn tập thơ Yêu đương (1933), Anh Nga (1934), Tiếng địch sông Ô (1935), Tần Ngọc (1937), Ngoài ra còn in trên báo các tác phẩm như: Con voi già, Hận chiến sỹ, Tần Hồng Châu, Lòng hối hận, Kinh Kha, Huyền Trân công chúa, Tây Thi... Thời kỳ đó những nhà thơ tiêu biểu của phong trào thơ mới như Thế Lữ, Xuân Diệu, Huy Cận, Lưu Trọng Lư, Chế Lan Viên... cũng chỉ mới in được một tập thơ thì việc xuất bản liên tiếp các tập thơ của Phạm Huy Thông cũng là một sự kiện đáng lưu ý, chứng tỏ tài năng và sức sáng tạo của một ngòi bút.
Thơ, kịch thơ của ông thường lấy đề tài lịch sử với cảm hứng hùng tráng trong bối cảnh đất nước đang bị thống trị bởi ách nửa thực dân, nửa phong kiến.Con voi già là tác phẩm được nhắc đến nhiều nhất trong dòng cảm hứng này bởi con voi già được nhắc được nhắc đến trong bài thơ chính là hình tượng của nhà chí sỹ yêu nước Phan Bội Châu.
Ở lứa tuổi ngoài 20, nhà thơ Phạm Huy Thông đã rẽ sang con đường nghiên cứu khoa học. Từ đó trở đi, sự nghiệp của ông thiên về giáo dục và nghiên cứu khoa học là chủ yếu.
Sẽ là thiếu sót nếu như viết về Phạm Huy Thông mà không nói đến vai trò của một dịch giả, người đã chuyển ngữ rất thành công tập Truyện ký Nguyễn Ái Quốc từ tiếng Pháp sang tiếng Việt. Từ những năm 20, Nguyễn Ái Quốc đã là người Việt Nam đầu tiên làm báo, viết truyện theo phong cách hiện đại của phương Tây. Bản dịch của Phạm Huy Thông đã phản ánh trung thành những ý tưởng sâu sắc và các hình thức thể hiện rất đa dạng trong văn xuôi của Nguyễn Ái Quốc.
Để ghi nhận những đóng góp xứng đáng của Phạm Huy Thông, Nhà nước ta đã trao tặng ông Huân chương Độc lập hạng nhất và nhiều huân chương cao quý khác.
Năm 2000, ông được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về một số công trình nghiên cứu thuộc chuyên ngành khoa học xã hội, trong đó có công trình nghiên cứu về thời kỳ Hùng Vương dựng nước - một đề tài mà ông dành khá nhiều tâm huyết.
Giáo sư, Viện sỹ Phạm Huy Thông mất ngày 21/6/1988. Tên của ông đã được đặt cho một đường phố ở Hà Nội gần hồ Ngọc Khánh. Trường Đại học Sư phạm Hà Nội đã dựng tượng của ông tại trung tâm Thông tin thư viện của trường. Tại Hưng Yên, tên của ông cũng được đặt cho một đường phố ở thành phố Hưng Yên và một trường học ở huyện Ân Thi.
Giáo sư, Viện sĩ Phạm Huy Thông
Phạm Huy Thông sinh ngày 22/11/1916, quê gốc ở làng Đào Xá (còn gọi là Đào Quạt), xã Bãi Sậy, huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên. Quê hương ông là vùng đất nổi tiếng với nhiều truyền thuyết dân gian và những chiếu chèo sân đình rộn rã một thời. Chẳng biết từ bao giờ, những lờ ca ngợi quê hương Đào Xá đã in vào tâm thức và trở thành niềm tự hào của mỗi người con đi xa.
Đào Xá tên gọi là làng
Làng em nhất xã chia làm ba thôn
Làng em đã nức tiếng đồn
cả làng làm quạt bán buôn đủ nghề
Nhiều người đi học, đi thi
Người thì đỗ trạng, người thì vinh hoa...
Truyền thống quê hương, truyền thống gia đình đã sớm tạo ra cho Phạm Huy Thông một nền tảng căn bản và vững chắc. Năm 17 tuổi, ông đỗ tú tài, 20 tuổi trở thành cử nhân luật. Từ năm 1937 đến năm 1945 ông du học ở Pháp. Sau khi hoàn thành luận án tiến sĩ Luật khoa, ông làm tiếp luận án thạc sĩ Sử học và học thêm một số ngoại ngữ như Trung Quốc, Nhật Bản, Đức v.v...
Bên cạnh sự nghiệp khoa học ngày càng mở rộng, Phạm Huy Thông còn tham gia hoạt động chính trị theo yêu cầu của đất nước thời kỳ đó. Từ năm 1940 đến 1945 ông tham gia tổ chức Ái Hữu của Việt kiều tại Pháp. Năm 1946, Hồ Chủ Tịch cùng phái đoàn chính phủ ta sang Pháp dự hội nghị Phôngtennơbờlô, Phạm Huy Thông được chọn làm thư ký cho Bác và thư ký hội nghị. Việc tiếp xúc với Hồ Chủ tịch đã nâng sự hiểu biết và nhận thức của nhà khoa học Phạm Huy Thông lên một tầm cao mới. Sau khi Bác về nước, Phạm Huy Thông vẫn được tiếp tục giao trách nhiệm thực hiện một số nhiệm vụ khác.
Ba mươi tuổi, Phạm Huy Thông đã trở thành Giáo sư. Hơn 40 năm hoạt động, Giáo sư Phạm Huy Thông đã giữ nhiều trọng trách như: Phó chủ nhiệm Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam (nay là Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn Quốc gia); Viện trưởng Viện Khảo cổ học; Quyền Chủ tịch kiêm Tổng thư ký Hội khoa học lịch sử; Hiệu trưởng trường Đại học Sư phạm Hà Nội; Chủ tịch Hội Du lịch Hà Nội; Đại biểu Quốc hội khóa II, khóa III.
Giáo sư Phạm Huy Thông đã thể hiện là một người đặc biệt có tài về tổ chức và kinh nghiệm lãnh đaọ. Thể hiện khi giáo sư lãnh đạo Viện Nghiên cứu khảo cổ học nghiên cứu thành công đề tài “Thời đại các Vua Hùng dựng nước”, “Khảo cổ học 10 thế kỷ sau công nguyên”, “Khảo cổ học với văn minh thời Trần”... Góp phần làm cho đất nước ta trở thành một quốc gia có nền khảo cổ học mạnh nhất Đông Nam á.
Không chỉ tham gia hoạt động và có uy tín trong nhiều lĩnh vực thuộc khoa học xã hội ở Việt Nam, giáo sư Phạm Huy Thông còn là người được bạn bè quốc tế quý trọng. Ông được bầu là Viện sĩ Viện hàn lâm khoa học Cộng hòa dân chủ Đức, là sáng lập viên của tổ chức quốc tế về Giáo dục và Ủy viên Hội đồng hòa bình thế giới trong nhiều năm.
Phạm Huy Thông còn được biết đến như một nhà thơ tài danh đã được Hoài Thanh - Hoài Chân viết trong cuốn Thi nhân Việt Nam. 16 tuổi ông đã nổi tiếng tiên phong trong phong trào Thơ Mới. Tuy nhiên sự nghiệp thi ca của ông tập trung chủ yếu trong khoảng sáu năm đầu đời của tuổi thanh niên. Ông là người khai mở cho thể loại kịch thơ với 2 tác phẩm nổi tiếng: Anh Nga và Tiếng địch sông Ô.
Chỉ trong một thời gian rất ngắn, ông đã cho ra đời bốn tập thơ Yêu đương (1933), Anh Nga (1934), Tiếng địch sông Ô (1935), Tần Ngọc (1937), Ngoài ra còn in trên báo các tác phẩm như: Con voi già, Hận chiến sỹ, Tần Hồng Châu, Lòng hối hận, Kinh Kha, Huyền Trân công chúa, Tây Thi... Thời kỳ đó những nhà thơ tiêu biểu của phong trào thơ mới như Thế Lữ, Xuân Diệu, Huy Cận, Lưu Trọng Lư, Chế Lan Viên... cũng chỉ mới in được một tập thơ thì việc xuất bản liên tiếp các tập thơ của Phạm Huy Thông cũng là một sự kiện đáng lưu ý, chứng tỏ tài năng và sức sáng tạo của một ngòi bút.
Thơ, kịch thơ của ông thường lấy đề tài lịch sử với cảm hứng hùng tráng trong bối cảnh đất nước đang bị thống trị bởi ách nửa thực dân, nửa phong kiến.Con voi già là tác phẩm được nhắc đến nhiều nhất trong dòng cảm hứng này bởi con voi già được nhắc được nhắc đến trong bài thơ chính là hình tượng của nhà chí sỹ yêu nước Phan Bội Châu.
Ở lứa tuổi ngoài 20, nhà thơ Phạm Huy Thông đã rẽ sang con đường nghiên cứu khoa học. Từ đó trở đi, sự nghiệp của ông thiên về giáo dục và nghiên cứu khoa học là chủ yếu.
Sẽ là thiếu sót nếu như viết về Phạm Huy Thông mà không nói đến vai trò của một dịch giả, người đã chuyển ngữ rất thành công tập Truyện ký Nguyễn Ái Quốc từ tiếng Pháp sang tiếng Việt. Từ những năm 20, Nguyễn Ái Quốc đã là người Việt Nam đầu tiên làm báo, viết truyện theo phong cách hiện đại của phương Tây. Bản dịch của Phạm Huy Thông đã phản ánh trung thành những ý tưởng sâu sắc và các hình thức thể hiện rất đa dạng trong văn xuôi của Nguyễn Ái Quốc.
Để ghi nhận những đóng góp xứng đáng của Phạm Huy Thông, Nhà nước ta đã trao tặng ông Huân chương Độc lập hạng nhất và nhiều huân chương cao quý khác.
Năm 2000, ông được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về một số công trình nghiên cứu thuộc chuyên ngành khoa học xã hội, trong đó có công trình nghiên cứu về thời kỳ Hùng Vương dựng nước - một đề tài mà ông dành khá nhiều tâm huyết.
Giáo sư, Viện sỹ Phạm Huy Thông mất ngày 21/6/1988. Tên của ông đã được đặt cho một đường phố ở Hà Nội gần hồ Ngọc Khánh. Trường Đại học Sư phạm Hà Nội đã dựng tượng của ông tại trung tâm Thông tin thư viện của trường. Tại Hưng Yên, tên của ông cũng được đặt cho một đường phố ở thành phố Hưng Yên và một trường học ở huyện Ân Thi.
Tác giả bài viết: Trí Dũng (Sưu tầm)
Nguồn tin: hungyentv.vn
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn